Chùa Bà Đanh là một ngôi chùa tại Hà Nội dành cho người Chăm. Tây Hồ chí ghi là vua Lê Thánh Tông đã cho làm một thiền viện (vừa là chùa vừa là trung tâm nghiên cứu) ở gò Phượng Chủy bên bờ Nam hồ Tây cho người Chăm hành đạo, gọi là Thiền viện Châu Lâm, nhưng dân thì gọi là chùa Bà Đanh. Gò Phượng Chủy nay là khu vực trường Chu Văn An, quận Ba Đình. Nay chùa thuộc số nhà 199B phố Thụy Khuê, chung với chùa Châu Lâm.
Câu chuyện về chùa Bà Đanh
Chùa Bà Đanh vẫn vắng vẻ trong mùa lễ hội Cách thị xã Phủ Lý chừng 15km, men theo con đê tả ngạn sông Đáy là đến xã Ngọc Sơn (huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam).Chùa Bà Đanh ngự bên bờ sông Đáy hiền hòa. Chùa không lớn, không nguy nga tráng lệ nhưng được đặt trong khung cảnh thôn dã, um tùm những bóng cây cổ thụ. Trên một bãi đất bồi cao, quanh chùa không có nhà ở. Nằm bên cạnh là dòng sông Đáy lững lờ trôi, thưa thớt thuyền bè.
Theo truyện kể, gần ngàn năm trước giữa cánh rừng đại ngàn bên bờ sông Đáy có một ngôi đền nhỏ thờ thần Pháp Vũ, một trong Tứ Pháp là Pháp Vân (Thần Mây), Pháp Vũ (Thần Mưa), Pháp Lôi (Thần Sấm Sét), Pháp Phong (Thần Gió). Dân làng Đanh Xá (thuộc xã Ngọc Sơn bây giờ) rước chân nhang từ chùa Phúc Nghiêm về ngôi đền ở gần làng mình và chỉ thờ Pháp Vân để cầu mưa.
Trong đền có bức tượng rất đẹp của vị thần mưa với dáng hình của người con gái có dung mạo khả ái, hiền từ. Đến đời Lê Hy Tông (1675-1705) đền được xây dựng lại to đẹp, khang trang hơn. Rồi họ rước tượng Phật về thờ chung. Lưu truyền, người có công dựng chùa là Bà Đanh. Để tưởng nhớ công ơn, dân làng lấy tên chùa là chùa Bà Đanh. Năm 1994 chùa Bà Đanh được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thông tin - Du lịch) cấp bằng di tích lịch sử-văn hóa.
Câu hỏi lớn chưa lời đáp
Có nhiều lý do để chùa Bà Đanh đi vào tục ngữ dân gian Việt Nam và là câu cửa miệng để mỗi người khi muốn nói về cảnh vắng vẻ, âm u của một nơi nào đó. Về với chùa Bà Đanh trong mùa lễ hội đang nô nức trên cả nước, cái không khí lạnh lẽo, thâm u vẫn bao trùm.
Có ý kiến cho rằng, chùa Bà Đanh nằm ở vị trí , u tịch, xa dân cư, ba mặt là sông, rừng rậm chắn lối ra vào độc đạo và có nhiều thú dữ. Tương truyền, chùa lại rất linh, ai trái ý là bị quở phạt nên khách thập phương vốn đã ít lại càng thưa vắng. Ngay cả bãi bồi màu mỡ bên cạnh chùa dân địa phương cũng không dám canh tác. Nhưng mấy năm gần đây, con đường dẫn vào chùa được mở rộng, lát bê tông, rừng cây bớt rậm rạp, dân cư ở đông hơn... vậy mà chùa vẫn vắng?
Có người còn cho rằng chùa Bà Đanh là ngôi chùa thờ thần mưa, người xưa lập đền thờ để mong mưa thuận, gió hòa. Dần dần người dân nhận ra rằng, thời tiết là do tự nhiên, không thể cầu khấn, chùa Bà Đanh cũng từ đó thưa người đến cúng viếng...?. Câu nói cửa miệng cùng với những truyền thuyết dân gian đã tạo cho chùa Bà Đanh một nét riêng, không nơi nào có được. Nhưng cũng chính lời chê “vắng tanh...” ấy lại là một “ẩn số” để những khách du lịch, nhà nghiên cứu lần mò vạn dặm về thăm chùa. Theo sư thầy Thích Đàm Đam: “Dăm bảy năm nay khách thập phương cũng tìm về đông hơn. Hầu như họ về đây chỉ để có câu trả lời: Vì sao chùa Bà Đanh lại vắng đến thế?”.
Từ câu nói cửa miệng dân gian, cái vắng vẻ của chùa Bà Đanh dường như là một “thương hiệu” để cho ngôi chùa trường tồn cùng thời gian và được những người thích khám phá thường xuyên tìm về viếng thăm nét hoang sơ vẫn còn giữ được.
“Vắng như chùa Bà Đanh”. Từ thành phố Phủ Lý rẽ vào quốc lộ 21, đi cầu Quế khoảng hơn 1km, chúng tôi thấy chùa Bà Đanh thấp thoáng hiện ra sau những bóng cây. Ngôi chùa u tịch nhìn ra con sông Đáy trôi chảy hiền hòa. Bến nước của chùa Bà Đanh nằm thoai thoải bên bờ sông, các bậc đá màu xám ngà ngà nổi bật giữa màu xanh của cây cỏ và dòng nước phẳng lặng như gương. ![]() Chùa Bà Đanh hiện ra thấp thoáng sau những bóng cây ![]() Con đường nhỏ dẫn vào chùa Bà Đanh rợp bóng nhãn, vải Đi qua chiếc cầu treo Cấm Sơn khá bề thế bắc qua sông Đáy, vòng lên một đoạn đường đê vắng vẻ, chúng tôi bắt gặp tấm biển bằng đá ghi “Di tích lịch sử văn hoá chùa Bà Đanh và núi Ngọc”. Chùa Bà Đanh thuộc địa phận thôn Đanh, xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, cách núi Ngọc khoảng 100m. Từ núi Ngọc và từ chân đê, đi qua những đoạn đường nhỏ vắng lặng rợp bóng vải thiều, nhãn..., du khách sẽ thấy tam quan chùa Bà Đanh hướng về phía con sông Đáy thơ mộng. Khoảng sân rộng được lát đá trồng nhiều loại cây như đa, hoàng lan, sứ… Những cây bưởi trĩu quả vỏ vàng tươi tắn, những cây táo ta sai quả gợi nên hình ảnh một cuộc sống thanh đạm mà trù phú. Đặc biệt, ngôi chùa trồng một cây đào tiên tán thấp có quả to, tròn và dẹt dẹt như bưởi nhưng vỏ nhẵn thín màu xanh bóng, chi chít đầy cành. ![]() ![]() Tam quan chùa Bà Đanh ![]() Một góc sân chùa u tịch Chùa Bà Đanh gồm nhiều công trình như: nhà bái đường, nhà thượng điện, nhà trung đường, phủ thờ Mẫu, nhà tổ… Trên các cột và vì kèo chạm khắc tinh vi theo đề tài “Ngũ phúc”, “Tứ linh”, “Tùng mã”, “Mai điểu”… Ngay gần đó là một bến nước lớn uy nghiêm nhưng vắng vẻ, trên các bậc lên xuống của bến nước, lá đa rụng đầy gợi không khí u tịch. Đứng trên bến nước, ngắm nhìn khung cảnh sơn thủy hữu tình, cái lặng yên nhắc cho trái tim mẫn cảm nhớ đến câu thơ của Trần Đăng Khoa: “Ngoài thềm rơi chiếc lá đa/Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”. Ngôi chùa của những truyền thuyết dân gian Chùa Bà Đanh có tên chữ là Bảo Sơn tự, ngoài thờ Phật còn thờ Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào, Bắc Đẩu và Tứ Pháp trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam (bao gồm Pháp Vân - mẹ Mây, Pháp Vũ - mẹ mưa, Pháp Lôi - mẹ Sấm, Pháp Điện - mẹ Chớp). Lịch sử xây chùa Bà Đanh gắn liền với nhiều truyền thuyết lạ kỳ như tích về mẹ Phật Man Nương – được cho là nguồn gốc của Tứ Pháp – vốn lưu truyền rộng rãi ở các tỉnh đồng bằng Bắc Phần. ![]() Một toà nhà trong tổng thể kiến trúc chùa Bà Đanh ![]() Du khách sẽ được chiêm ngưỡng những tác phẩm chạm khắc gỗ tinh xảo ![]() Bến nước chùa Bà Đanh nằm bên con sông Đáy hiền hoà lá đa rụng đầy ![]() Con rồng đá nơi Tam quan Tượng Bà Chúa Đanh được thờ trong chùa tương truyền là một người con gái được các Thần phái về để trông coi vùng này. Từ khi nhân dân trong vùng xây xong chùa thì sản xuất thuận lợi, không còn thiên tai mất mùa, đời sống trở nên đầm ấm, trù phú. Do đó, trong tâm thức dân gian Bà Chúa Đanh chính là vị thần mùa màng, phù hộ cho nông nghiệp. Nhiều người kể rằng do chùa Bà Đanh quá linh thiêng nên khách thập phương cũng ít dám ghé qua vì sợ nếu thất lễ sẽ bị trừng phạt. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng chùa ở xa khu dân cư, cách trở núi sông, giao thông không thuận tiện nên ít người lui tới. Dù giải thích thế nào thì dường như nguồn gốc câu thành ngữ “Vắng như chùa Bà Đanh” vẫn là một bí ẩn! |
